Hoa tiếp tục lửng
thửng đi theo con đường Quang Trung với nỗi lòng quặn thắc trong buổi hoàng hôn
se lạnh của trời cuối thu làm cho con tim càng thêm nhức nhối. Cảnh vật chung
quanh như đồng cảm và trĩu nặng với mối u sầu vương mang của lữ khách. Phút
chốc, Hoa đã đến bên bờ sông Thạch Hãn, lòng Hoa buồn vời vợi khi chạnh nhớ bài
thơ LỠ LÀNG của Ðông Phong TÐÐ, Hoa khẻ ngâm hết bài thơ để rồi vội vã ra về vì
trời đã tối sầm một cách đáng sợ…
<!>
<!>
Chiều
thu lành lạnh đợi đò ngang
Xào xạc
cành rung rũ lá vàng
Gởi nỗi
niềm riêng cơn gió lộng
Trôi dòng ký ức nước sông mang
Ra đi
vẫn nhớ lời chung thủy
Trở lại
thì hay chuyện lỡ làng
Thơ thẩn
bâng khuâng ngồi bến đợi
Chờ nghe tiếng sóng rẽ bờ sang.
Rẽ bờ
sóng nhẹ tiễn em sang
Trút mối
ưu tư cảnh lỡ làng
Lưu
luyến tình xưa lòng héo hắt
Vấn vương nghĩa cũ dạ sầu mang
Hẹn thề
chưa vẹn duyên trăng nước
Cách trở
đành quên nghĩa đá vàng
Dẫu muốn
mờ phai thời dĩ vãng
Sao nhoà dấu ấn buổi sang ngang
Chưa
nhoà dấu ấn buổi sang ngang
Ôm hận
tàn thu với bạn vàng
Vận số
lao đao còn đeo đuổi
Duyên tình trắc trở vẫn vương mang
Ba sinh
cứ tưởng đời êm ái
Một cõi
nào hay chuyện lỡ làng
Thôi thế
thời thôi thời thế thế
Cho lòng
nhẹ nhỏm lật trang sang.
Ðêm hôm đó, Hoa không tài nào ngủ
được. Nhớ lại lời nói miệt thị và thái độ thù ghét mà Nhân đã đối xử với nàng
hồi chiều làm cho con tim Hoa nhức nhối, lòng buồn và buồn vô hạn... Với tấm
lòng độ lượng và có một điều gì hối hận, nên Hoa lại tự nhủ với lòng là đáng
thương Nhân hơn là đáng trách. Nàng lại nghĩ:
- Nàng Kiều bán mình để chuộc cha
trong trường hợp bị cường hào ác bá cưỡng bức đẩy nàng vào thế đường cùng. Cuộc
đời của Kiều lại phải chịu bao nỗi đắng cay bội phần, sống chết bao phen, quả
thật tạo hóa bất công.
Trường hợp của Hoa do Hoa tự cân
nhắc, tự chọn giữa chữ hiếu và chữ tình. Trước
mắt, Hoa cứ nghĩ mình cần phải
cứu cha và gia đình, còn tình yêu với Nhân mình không phản bội là được! Nhưng
có ngờ đâu sự thể lại đẩy đưa ngoài ý muốn... Nỗi oan nầy làm sao giải được!
Hoa đến với Tony cũng bằng tình
yêu và thật sự của tình yêu vợ chồng. Hoa hết lòng với chồng con và gia đình
chồng, Hoa cố quên hình ảnh Nhân, càng cố quên thì lại nhớ, nhớ cái hình ảnh
tình đầu ngây thơ của tuổi mới lớn, và nhớ để mà hối hận như chuộc lỗi chưa vẹn
câu thề.
Một điều Hoa hằng cầu mong cho
Nhân được bình an và có được một mái ấm gia đình hạnh phúc, nên Hoa đã cố tìm
để nói được một lời tạ tội và nếu có thể giúp cho gia đình Nhân nếu có khó
khăn. Ðiều ước nguyện của Hoa đã tan thành mây khói...
Không ngủ được, nhưng trời đã sáng, Hoa tự hứa với lòng là quên đi
tất cả….
Thế gian nhiều nỗi đắng cay
Mấy ai hiểu được lòng này cho
chăng
Thương ai máu lệ đôi hàng
Thấm sâu về dưới suối vàng giải
oan…
Hoa rời phòng ngủ, sau khi trang
điểm một cách sơ sài, nàng rủ Bà Ba cùng đi ra quốc lộ 1 ngang qua xã để Hoa có
dịp tìm hiểu thêm về các chứng tích của thảm hoạ 1972...
Trên đường đi dọc Quốc Lộ 1 ra hướng Bắc về phía
tay trái, Hoa nhìn thấy tượng Ngài Ðịa Tạng nên rất ngạc nhiên...
- Đó là Chiêu Linh Ðài của Phật Giáo. Trong đợt theo
dân Quảng Trị hồi cư, Tỉnh Giáo Hội PGVNTN tỉnh Quảng Trị được
sự thoả thuận của xã Hải Trường nên đã dựng lên một ngôi Chùa tạm vừa làm trụ sở
Tỉnh Giáo hội QT, gần với khuôn viên Tỉnh Giáo hội, Thượng Toạ Thích Chánh Trực
cho xây Tượng Ðài Ngài Ðịa Tạng gọi là
Chiêu Linh Ðài để giải oan cho bao sinh linh chết oan, chết thảm trong cuộc chiến,
gọi là Ðại Lộ Kinh Hoàng. Vào khoản tháng Tư năm 1974, Tỉnh Giáo Hội có sự tiếp
tay của các cơ quan thuộc tỉnh, Hội Ðồng Tỉnh và dân chúng tổ chức một Ðại Lễ Ðại
Trai Ðàn kéo dài hơn một tuần do Tỉnh Giáo hội chủ trì có sự tham dự của nhiều
phái đoàn các tỉnh và phái đoàn PGVNTN Trung Ương ra tham dự.
Sau năm 1975, ngôi chùa bằng cây gỗ lợp tôn phải
tháo gỡ di dời ra chùa Sắc Tứ. Chiêu Linh Ðài xây bằng xi măng nên còn lại,
nhưng chính quyền không cho tu sửa, mãi sau này một số tín đồ làm liều lén lút
sơn quét lại mới thấy được như ngày nay.
Tháng 7 năm 2005, Thầy Thích Chánh Liêm phối
hợp với quý thầy ở Huế có tổ chức một đại lễ Trai Ðàn có
rất đông đạo hữu các nơi về tham dự nhưng vẫn hạn chế một số chùa ở Hải
Lăng không tham dự được. Bà Ba giải
thích…
Hoa đi dọc thêm mấy
kilomet về hướng Bắc thì thấy một nghĩa trang khang trang tên là “ Nghĩa trang liệt sĩ ”. Nơi đó có một tượng
đài cao hơn sáu mét có hàng chữ - Ðài
Liệt sĩ.
Bà Ba kể cho Hoa nghe lai lịch nghĩa trang
và tượng đài nầy....Năm 1973, Tỉnh và Hội Ðồng Tỉnh Quảng Trị đã chọn khu đất nầy
làm Nghĩa Trang và Ðài Tưởng Niệm nạn nhân
chiến cuộc 1972. Đó là vùng đất rộng
lớn do xã Hải Trường thuận nhượng. Hội Ðồng Tỉnh cho trồng dương liễu chung
quanh và lập nên một nghĩa trang rất đẹp.
Ðài Tưởng Niệm có
tường thành xây bao chung quanh. Phía sau
Ðài có ngôi nhà xây tường, lợp ngói gọi là Ðền Tưởng
Niệm, phía trong có ba căn thờ lớn và giao cho xã quản thủ, cắt cử người trông
nom hương khói. Quanh Ðền, Ðài là khu mộ của những đồng bào và binh sĩ tử nạn
không có thân nhân.
Sau biến cố cuối tháng 4/1975, Ðền
và Ðài tưởng niệm cùng chung số phận của bao nghĩa trang như NghĩaTrang Biên
Hòa của quân đội VNCH khác bị xóa sạch. Nghĩa trang này chúng cướp đi để lập
thành Nghĩa trang liệt sĩ Cọng sản, ngôi Ðền thì chúng san bằng và cướp gạch
ngói, gỗ về làm của riêng. Về Tượng Ðài, chúng giữ lại và cải biến thành Ðài
Liệt sĩ.
Hoa nghe Bà Ba kể hành động cướp đoạt như trên, nàng cảm
thấy quá xót xa cho thân phận người dân sau ngày gọi là “được giải phóng”.
Đối với người sống thì chúng đoạt của,
bắt làm nô lệ, bắt tù tội đủ cách... Với người chết thì chúng cũng cho “ liệt sĩ ”dành chỗ nghĩa trang “ tử sĩ ”.
Quá ngao ngán, Hoa buông tiếng thở dài …. Nàng kéo tay Bà Ba lửng thửng
đi về với nỗi buồn vô tận...
Nguyễn Ninh Thuận
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét