Hoa được sinh ra và lớn lên ở thôn
Bến Đá, quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị ; đây là tỉnh địa đầu giới tuyến ngăn
cách hai miền Nam Bắc Việt Nam bằng chiếc cầu oan nghiệt Hiền Lương (còn gọi là
cầu Bến Hải). Bên kia cầu phía Bắc là phần đất của phe Cộng Sản. Bên nầy cầu
phía Nam là phần đất của người Việt quốc gia theo khối thế giới Tự Do. Đời sống
thôn Bến Đá tuy được tự do, nhưng vùng nầy “đất cày lên sỏi đá ”. Lại nữa “Trời
đày cơn lụt mỗi năm, mùa Đông thiếu áo, mùa Hè thời thiếu ăn…”
<!>
<!>
Tất cả những nỗi khổ trong dân
gian, người dân ở đây gánh chịu hết. Ca sĩ Duy Khánh, một người của Quảng Trị
đã diễn tả tuyệt vời trong ca khúc “ Tiếng Sông Hương ”của nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Từ đầu Hạ đến cuối Thu, làng Bến Đá vốn thuần
nghề nông, nên mãi nghèo xơ xác. Với con trâu đi trước cái cày theo sau
là phương tiện
sinh sống của dân làng. Nó đem lại từng hạt lúa trăn trở cho dân quê
chân lấm tay bùn. Ngoài ra từng vồng khoai sắn, đậu mè góp cho cái bao tử vốn
xẹp lép được căng ra chút đỉnh. Khí hậu ở đây quá khắc nghiệt, đất đai cằn cỗi.
Nguồn thu hoạch không được bao
nhiêu, dù dân làng đã đổ biết bao mồ hôi nước mắt tưới lên ruộng đồng. Mùa Hè,
khí trời nóng bức làm người và vạn vật uể oải, cây cối thiếu nước ủ rũ, ruộng
lúa nức nẻ.
Những trận gió Nam Lào nóng hổi
thổi về miền Trung khô cằn. Gió đem theo cát bụi mịt mù, thổi rào rào trên
những mái nhà tôn. Con người như khô kiệt, trăn trở tìm hơi mát trên những tấm
phản gỗ ướt đẫm mồ hôi. Cơn gió nóng không buông tha giường chiếu. Sờ vào nơi
nào cũng cảm thấy nóng hôi hổi.
Mọi người không muốn ngã lưng nghỉ
mệt…Thập niên 60, về đêm, làng Bến Đá chìm trong bóng tối với những ngọn đèn
dầu hiu hắt. Những đêm trăng sáng, khung cảnh vui hơn. Tiếng cười khúc khích
của các cô thôn nữ trổi lên không ngớt. Những câu hát đối đáp của trai gái làm
vơi bớt sự mệt nhọc của công việc đồng áng: tuốt nếp, đạp lúa, giã gạo… Bến Đá
nói riêng, Quảng Trị nói chung hay cả miền Trung có bốn mùa rõ rệt...
Mùa Đông thì ôi thôi buồn thúi ruột, mưa rả rích, mưa dầm mưa dề đến
thối cả đất. Người và vật co ro trong những chiếc áo lạnh sờn vai. Những
cái tơi chằm bằng lá lụp xụp, gió bề nào
che bề đó không đủ mời gọi chị mưa đi chỗ khác chơi.
Mọi người ra đường, những hàm răng
thường đánh lặp cặp vào nhau đến tê tái làn da xám ngắt, những đôi chân run
run, xiêu vẹo trơn trợt trong vũng bùn nhắc lên không nổi. Đôi bàn tay xương
xương, vuốt khuôn mặt hốc hác đầy nước mưa như dòng lệ không ngừng chảy trong
tâm cang phát ra… Nhưng càng khổ hơn với cái lụt ào ào đến viếng không cần mời
gọi. Người người, nhà nhà tất bật kê đồ đạt lên thật cao. Họ có thể gác cây ván
trên đòn dông nhà, nếu không muốn đồ đạc bị ướt hay nước lụt cuốn trôi cái sản
nghiệp nhỏ nhoi của mình đi. Không những bị lụt, mà hàng năm cơn bão cũng không
tha và đã gieo bao tai hoạ khốn khổ cho quê hương nghèo khổ.
Là vùng địa đầu của miền giới
tuyến, làng Bến Đá không tránh được bao bom đạn chiến tranh tàn phá khốc liệt.
Đêm đêm vọng về những tràng đạn pháo, đại liên… Những ánh hoả châu lập lòe như
ánh sáng đom đóm trong những đêm tối trời xa vắng. Những tiếng rền trời đinh
tai nhức óc của từng đoàn máy bay xuyên ngang vùng giới tuyến rồi cũng quen tai
cho những khuôn mặt già nua ngơ ngác.
Tiếng thở dài bất tận suốt đêm
thâu và trăn trở cho cuộc sống dân nghèo. Tuy vậy sức chịu đựng trước nghịch
cảnh thiên tai vẫn tiếp diễn, tiếp diễn… Số phận hẩm hiu vẫn hằn in trên từng
nét mặt dân làng và như bánh xe quay theo thời gian. Trong một năm, dân làng,
cây cỏ cảm thấy nhẹ nhỏm với nàng Xuân tươi cười xuất hiện. Gần tiết Xuân hơi
se lạnh, rồi Tết đến đem bao niềm vui cho trẻ thơ trông ngóng tấm áo mới, thay
cho những áo quần đã chắp vá cũ mèm. Cái rộn ràng của tiếng Xuân, xóa đi bao sợ
sệt của đám trẻ trong cơn hốt hoảng vì bom đạn chiến tranh, khiến chúng phải
nép vào lòng mẹ tìm hơi ấm và sự che chở của tình thương.
Bến Đá đó đất khô cằn sỏi đá,
Cạnh bờ sông ít ruộng lúa nương dâu
Người dân sống hiền hoà trong mái lá,
Làng tôi nghèo, vùng hoả tuyến địa
đầu,
Bến Đá tôi, dân tình luôn khốn khổ,
Vẫn trụ mình bám đất giữ quê hương,
Sát nách giặc, nên ngày đêm máu đổ!
Đành xa quê, nhiều kỷ niệm buồn thương!…
Hoa, cô bé gái đầu lòng trong số bảy con của ông bà Sửu. Gia
đình sinh sống bằng nghề nông của làng Bến Đá. Cuộc sống của hai ông bà
thật tất bật với chín miệng ăn. Cái ăn lo không đủ lấy chi lo cho các con cắp
sách đến trường, đúng như câu ngạn ngữ “ cái khó bó cái khôn ”.
- Vợ chồng mình một nắng hai sương, cày sâu cuốc bẫm. Chúng mình
làm thuê làm mướn trên mấy thửa ruộng khô cằn đến nám mặt. Làm cật lực như thế
mà không lo đủ cho các con mỗi ngày một khôn lớn no bụng. Muốn thoát khỏi cảnh này thì phải cho các con
đi học. Có như thế, may ra tương lai chúng khá hơn, không giống mình như hiện
nay... Bà Sửu hay than thở cùng chồng.
- Mẹ nó nói như thế rất phải! Cái ăn cũng không có, lấy tiền đâu
mà cho con đi học. Tôi thì đau ốm bệnh tật triền miên. Bao nhiêu gánh nặng, lo
toan cho cuộc sống trong nhà đều trông cậy vào một mình bà hết!
Nói tới đó ông Sửu thấy thương cảm cho vợ, người đàn bà cùng quê
đã chia ngọt sẻ bùi với ông hơn mười mấy năm qua. Bà đã sinh cho ông bảy đứa
con vừa trai vừa gái, mấy đứa con gái giống mẹ rất xinh xắn. Hình ảnh bà Sửu
hồi còn trẻ hiện về trong ký ức ông…
Nguyễn Ninh Thuận
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét