Cứ mỗi buổi chiều khi ánh
nắng bắt đầu nhạt dần, nhạt dần… Hoàng hôn từ từ buông xuống cảnh vật xung
quanh trường Triệu Hải in bóng một thương binh ngồi buồn trên chiếc xe lăn bên
bờ hồ nước chảy róc rách. Người đàn ông đó là Nhân tìm đến ngôi trường đổi tên
để nhớ về ngôi trường cũ Nguyễn Hoàng…
- Chỗ mình ngồi hiện nay, trước kia là văn phòng
của thầy hiệu trưởng, trước mặt là nhà để xe và bàn đánh ping pong!
Những kỷ niệm xa xưa lần lần hiện về trong trí óc
Nhân…
...Năm Đệ Tam, Nhân mới được thâu nhận vào
học Nguyễn Hoàng. Cha chàng chết sớm, mẹ tần tảo mua gánh bán bưng nuôi chàng ăn
học. Khi Nhân thi đậu vào trường công thì mẹ theo ra Quảng Trị giúp việc cho
một tiệm ăn lấy tiền phụ giúp chàng chi tiêu ăn học. Nhân vào làm gia sư nhà
Thầy Cô Thế Oanh, thế rồi gặp gỡ Hoa đang giúp việc cho gia đình cô thầy và hai
người yêu nhau tha thiết…
<!>
<!>
Tình yêu hai người đẹp như một bài thơ… Nhân
thường giúp Hoa trong những công việc nặng nhọc ở nhà như xách nước, giặc giũ
mùng mền chiếu gối…tối tối trong khi dạy con Cô Thầy Thế Oanh học thì kèm cho
Hoa luôn… Đôi mắt trong sáng, nụ cười và những ân cần săn sóc của Hoa cho Nhân
trong mùa chàng thi Tú tài như còn phảng phất đâu đây!.. Những ly chè mát lạnh,
chiếc bánh ân tình như còn ẩn hiện trong khung cảnh khi Nhân cùng các bạn đến
trường học khuya để luyện thi… Âm vang mật ngọt và những ước hẹn trong trẻo của
Hoa như một lời khuyến khích vang dội trong tâm khảm Nhân:
- Anh phải ráng học, anh thi đậu tú tài chúng ta
mới có cơ hội tiến tới hôn nhân…
Thế rồi Nhân thi đậu tú tài và vì hoàn cảnh gia
đình khó khăn không thể tiếp tục lên Đại học. Chàng chọn con đường ngắn nhất
trước trả nợ núi sông, sau có thể tiến đến hôn nhân với Hoa, chàng phải vào
trường sĩ quan Thủ Đức…
Từ
trạng thái buồn, khuôn
mặt Nhân chuyển sang giận dữ, hằn
học…
- Nhân tình
thế thái! Đốn mạt thật, Hoa nỡ phụ tình ta đi lấy chồng Mỹ !
“ Người đi một nửa hồn tôi mất! Một nửa hồn tôi
bỗng dại khờ…”
Nhân có hai ý kiến xung đột nhau cứ lởn vởn trong đầu…một bên là tha thứ- một bên là hận thù… Năm 1999 Hoa nghe tin mẹ
nàng bệnh nặng nên có về nước thăm nhà, nghe đâu nàng định tìm gặp Nhân tạ lỗi
để xin chàng tha thứ… Suy đi nghĩ lại sợ phiền phức cho chàng vì những con mắt
cú vọ công an để ý đến một TPB/VNCH, hơn nữa Hoa nghe em nàng cho biết, Lài vợ
Nhân biết rõ cuộc tình của hai người nên hay ghen bóng ghen gió… Nàng suy nghĩ…
- Mình đã phản bội Nhân, khiến chàng đau khổ gần
hết cuộc đời… Mình đã không đem hạnh phúc cho Nhân, thôi thì nay đừng quấy rối
hạnh phúc của chàng nữa !…
Nghĩ thế, nên Hoa viết một lá thư và đưa năm ngàn
đô nhờ em nàng chuyển đến Nhân. Thời điểm khi đó, với số tiền ấy có thể mua đất
mua nhà, hay có vốn mua bán làm ăn...Nhưng Nhân quá hận đời đen bạc, đổi trắng
thay đen… nên chàng từ chối sự giúp đỡ của nàng. Mặc dầu khi đó hoàn cảnh gia đình
Nhân quá khó khăn cũng như hoàn
cảnh chung của tất cả mọi người
trong nước rất cần tiền…! còn bức thư chàng vò nát, không thèm đọc. Em của Hoa
buồn bã cầm tiền về…và sau đó lén gặp Lài giúp đỡ. Riêng Nhân bình tĩnh trở lại
vì- giận mà thương, thương mà giận… chàng lượm thư lên đọc và cất trong mình
như một kỷ niệm dù trong lòng vẫn hận Hoa…
Quảng Trị,
ngày… tháng…năm…
Anh thương
quí!
Em van xin
anh cho em gọi anh như thế! Dù Anh cứ nguyền rủa em hai tiếng “ bạc tình ” và căm thù cùng khinh ghét em đi
nữa, nhưng em mong anh hãy nhận số tiền ít ỏi đó vì là tâm huyết của em trao về
anh và gia đình anh…Em không mong anh tha thứ sự phản bội của em, vì tội em lớn
lắm đã làm anh đau khổ triền miên… Em chỉ mong anh thông cảm cho hoàn cảnh đặc
biệt của em…khi đó ba em đau nặng cần tiền chữa trị, các em cần tiền để đi học,
một điều em hằng mơ ước cho bản thân mình, nhưng không được! Em phải hy sinh
tình riêng để tạo hạnh phúc cho các em. Gương Mai, người chị trong Nửa Chừng
Xuân xâm nhập em trong cuộc sống…Em đã lỗi hẹn cùng anh, em không học làm cô
giáo vì với đồng lương ít ỏi đâu gánh vác nổi gia đình em…Em đi làm sở Mỹ, rồi
duyên số đưa đẩy em lấy chồng Mỹ và theo chồng sang Mỹ. Cuộc sống ở Mỹ bước đầu
cũng lắm nhiêu khê. Em đã từng bước khắc phục mọi khó khăn, buôn bán xuôi
ngược…Bây giờ tình thế đã ổn định, con cái thành tài…Em rất cô đơn nơi xứ
người, vì càng lớn chúng theo nếp sống Mỹ, xa rời vòng tay ấp ủ của em, nhưng
em lấy đó làm vui để sống, Tony chồng em
về già thích săn bắn hơn là vợ con sum vầy…Xứ lạ quê người em gượng sống cố làm
nuôi con và gởi về giúp gia đình qua mấy trận tai biến trong mùa Hè Đỏ Lửa, rồi
sau 30- 4- 75…
Anh thương quí, em đã nhẫn tâm phản bội anh để lo
cho gia đình. Lương tâm em ngày đêm bị dằn vặt suốt mấy chục năm nay! Bây giờ
em lại càng ray rức hơn khi được tin anh bị tàn phế, cưa đứt một chân. Nếu ngày
xưa em không phản bội anh thì giờ đây anh đâu bị như thế! Có lẽ hận em, hận đời
anh chọn ngành tác chiến, trong khi anh con một được chọn một đơn vị hậu cứ an
toàn hơn…Chỉ vì em, mà anh ra nông nổi như thế! Suốt đời em, em ân hận lắm! Nếu
còn thương em, anh hãy tha thứ cho em và cho em làm một việc nhỏ là giúp anh và
gia đình về tiền bạc vật chất…Em hy vọng một ngày gần đây em sẽ gặp anh và quỳ
dưới chân xin anh một lời tha thứ!... Khi đó anh sẽ vuốt tóc em và xem em như
một người em thân thuộc…Em nói ít mong anh hiểu nhiều…Chúc sức khỏe anh và gia
đình.
Thương mến,
Hoa
Cầm bức thư nhàu nát mà Nhân đã đọc trăm ngàn
lần, đến nỗi thuộc cả chấm phết trong thư… Tuy vậy giận hờn không thể rủ sạch
trong lòng chàng được!...
...Khi nghe tin Hoa bội ước, Nhân đớn
đau như muối xác vào lòng… Chàng chọn binh chủng tác chiến để ngày đêm say theo
mùi thuốc súng cho quên hình ảnh Hoa. Nhưng trớ trêu thay, muốn quên lại nhớ
nhiều hơn nữa…
Nhân ra trường khi các trận chiến khốc liệt xãy
ra...và từ ngày về phục vụ Biệt Động Quân đến nay đã hơn một năm rồi mà chàng
chưa đi phép về thăm mạ… Nhớ mạ lắm, Nhân mong ước Sư đoàn mình ra hành quân
phía Quảng Trị… Thật may, hôm sau có lệnh của Bộ Tham Mưu điều động Biệt Động
Quân phối hợp với Thủy Quân Lục Chiến ra Huế trong vụ Biến Ðộng Miền Trung… Nhân
được 24 giờ phép thăm mạ. Mạ con gặp nhau, mừng mừng tủi tủi…
Mạ Nhân biết tâm sự của con nên khóc lóc:
- Mạ chỉ có một mình con. Hoa đã lấy chồng yên
phận nó! Con có thương nhớ nó cũng vô phương. Con đừng quá nặng chữ tình mà coi
nhẹ chữ hiếu… Không phải mạ kể công ơn của mạ với con, nhưng nay mạ già rồi
cũng cần con dâu săn sóc khi đau ốm. Con thì đi biền biệt… Mạ cũng muốn có cháu
để bồng ẳm với người ta và khỏi bị ba
con khiển trách khi gặp ba con dưới suối vàng. Mạ không mong ước gì hơn, con
cưới vợ để quên con Hoa đêể mạ vui vẻ sống thêm một thời gian nữa, chứ cứ như
vậy mạ buồn đau ốm chết đi thì con vui sướng gì!..
Lài cô bạn hàng xóm thời thơ ấu nhỏ hơn Nhân mấy
tuổi. Thuở nhỏ cùng chơi đùa đi học với nhau. Các trò chơi nhảy dây, ô làng và
nhất là đám cưới khi nào tụi bạn cũng xúi Nhân làm chàng rể và Lài hoặc Hoa là
cô dâu xinh xắn, đầu đội một vòng hoa dại
do chàng kết bím và một nắm hoa làm đồ sính lễ… Thời gian qua, Nhân lớn
lên tiếp tục đi học rồi ra Nguyễn Hoàng học mới có lời thề ước với Hoa. Nhân
quên đi cô bạn gái thuở nhỏ phải bỏ dở việc học nửa chừng, nhưng sau nhờ có
chương trình đào tạo Giáo viên Ấp Tân Sinh nên trở thành cô giáo dạy trẻ ở quê
nhà.
Nhân cơ hội gặp lại con trai, mẹ Nhân nhắc nhở
đến Lài...
- Lài là cô giáo ngoan hiền ở sát nhà má, nàng
hay qua lại giúp đỡ mẹ vì thế mẹ rất thương và muốn Lài làm vợ của con !
Khi có dịp gặp Nhân là bà lại mang chuyện Lài ra
nói với con trai... Đầu năm 1971 Nhân theo đơn vị ra hành quân gần Lương Điền
và nghỉ chân tại Mỹ Chánh, chàng ghé thăm mẹ. Bà nhắc lại chuyện hôn nhân của
con..
- Ước mong cuối đời của mạ là con lấy vợ để có
cháu cho mạ bồng ẳm. Con Lài ở gần nhà mình có cảm tình với con. Nó không những
đẹp người và đẹp nết nữa.. Khi con đi đánh giặc, nó lui tới thăm viếng đỡ đần
cho mạ khi đau ốm. Mạ muốn cưới nó cho con để hôm sớm với mạ…
-
Thôi được, khi nào gặp mạ cũng nghe nhắc đến chuyện vợ con! Trái tim con đã
chết, nhưng con sẽ làm vui lòng mạ, vậy mạ cứ xúc tiến việc hôn nhân của con
đi…
Nghịch cảnh thương đau trước cuộc đời,
Gợi tình buồn bã lắm ai ơi!
U uẩn cõi lòng duyên phận mới,
Yêu trong oan trái lệ hằng rơi...
Anh vẫn yêu em trọn cuộc đời,
Nên tình đời lắm cảnh không vui...
Ngỡ ngàng khi biết em gian dối.
Im lặng đau thương suốt cuộc đời.
Ngậm ngùi lưu luyến chút tình xưa!
Hỏi kẻ bạc tình thức tỉnh chưa?
U uẩn trong lòng lắm đổi thay!
Nên cùng ai đó chung vai bước...
Sau đó một đám cưới ấm cúng của Nhân và Lài được
tổ chức qua sự chứng kiến của hai họ và bà con thân thuộc. Hết tuần trăng mật,
Nhân trở về đơn vị ra chiến trường An Lộc...
Trận chiến thật khốc liệt, tưởng rằng Nhân bị bỏ
thây nơi trận địa khi đại đội chàng bị vây hãm tại An Lộc. Nhưng với ý chí
cương quyết của toàn đại đội đã giữ vững được vị trí quyết thủ trước một lực
lượng ghê gớm của Việt Cộng cả về người lẫn hoả lực kinh hồn của đại pháo và
hoả tiển hùng hậu... Từng toán quân BĐQ chia nhau hành động thanh toán bốn
chiến xa địch.... Với tinh thần quyết chiến cao độ, toán Nhân triệt hạ một
chiếc cầu trong gian nan...
Đứng trước cái chết trong gang tất, lòng người
phải quyết định tìm sự sống trong cái chết, nên đã liều thân xung phong và từ
đó gặt hái được kết quả- địch phải thua!
Trước thành quả đầu, những toán sau lên tinh thần và bắt sống thêm 2 chiến xa
địch nữa... Chiếc còn lại bỏ chạy... Thế là tiếng hô lớn xung phong, rượt địch
đến cuối đường...
Tuy thế, Nhân đau đớn, ngã quỵ xuống khi biết
Nguyễn Tân, người bạn đã “ ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu ” tại quân trường Thủ
Đức, và khi ra trường cũng đã chọn đơn vị BĐQ để chiến đấu. Anh ta từng sát
cánh đánh giặc bên chàng thật hăng say… Tân chết trong khi truy kích địch và để
lại vợ trẻ và một cháu trai còn thơ dại. Những kỷ niệm, những tâm sự của bạn
sống dậy trong lòng Nhân…
...Hồi ở quân trường, Hoa còn là người yêu
của Nhân và Nguyễn Tân
hay nhận được
thư Thùy Hương người yêu đầu đời của chàng. Hai người chìm đắm trong
tình yêu đôi lứa và dễ thông cảm nhau, vì “ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương
cầu ” Họ
đọc cho nhau nghe những đoạn thơ tình tứ của các kiều nữ và dệt bao mộng
đẹp…
Nhưng Nhân bị tình phụ đã rớt xuống tận cùng của
lâu đài tình ái đến xấc bất xang bang. Trong khi Tân cố nén niềm vui của mình
để an ủi bạn…Trường tình ái kẻ được người thua, người buồn kẻ vui…
Khi
ra trường, Tân chọn đơn vị tác chiến để quyết lăn xả ra chiến trường giết giặc
trả thù cho cha mẹ đã bị Việt Cộng giết hại thật dã man. Cha Tân là một nhân viên trong văn phòng
xã. Ông già siêng năng đạt được nhiệm
vụ của mình vào buổi sáng trong văn phòng. Vào buổi trưa, ông rời khỏi văn
phòng và làm việc trên nông trại cho đến khi mặt trời đã đi rất thấp ở phía
chân trời. Một ngày nọ, người cha nghèo đi bộ về nhà, ông đã bị sát hại bởi một du kích với cái cuốc trong tay nhảy ra khỏi bụi
cây, phan
vào đầu ông. Vụ tấn công
xảy ra trong một phút. Rồi sau đó Việt Cọng cũng tìm cách thủ tiêu mẹ Tân. Trong khi còn nhỏ, Tân vuốt mắt cha chết trong
cơn tức tưởi, chàng đã có lời thề trước vong linh các chiến hữu là quyết tâm
cầm súng giết kẻ tàn ác đã gieo rắc biết bao thảm cảnh đau thương cho anh chị
em chàng và cho dân tộc VN. Nguyễn Tân thường vuốt tóc người yêu tâm sự:
- Anh đã có lời thề là cầm súng giết quân thù
trong vòng năm năm mới nghĩ đến chuyện lập gia đình. Qua thời gian đó, nếu anh
còn sống chúng ta mới tính chuyện sống bên nhau. Em nghĩ sao, tùy em quyết
định… Anh không trách em đâu?
- Em đã yêu anh, muốn anh tròn nghĩa hiếu đạo, em
sẽ chờ đợi anh. Hương ngã vào lòng người yêu thì thầm…
- Tội cho em
quá! Tội cho em sống trong thời chiến, lại làm người yêu của lính chịu
bao thiệt thòi. Có thể mai đây không biết có khóc than cho tình yêu dang dỡ,
khóc cho người lính sa trường da ngựa bọc thây không đây?!..
- Em cấm anh nói toàn những lời xui xẻo, lần sau
anh còn nói gỡ, em sẽ phạt anh hít đất trăm cái?! Hương khóa miệng người yêu
bằng chiếc hôn nồng thắm…
Biết
bao nhiêu là vật đổi sao dời, thế sự thăng trầm, nhưng tình yêu của cặp Tân- Hương
vẫn bền vững son sắt một dạ thủy chung… Năm năm trôi qua, Nhân có dịp làm phụ
rể cho Tân trong đám cưới nhà binh thật ồn ào với các tràn tiểu liên chỉ thiên
thay cho tiếng pháo vang rền chúc mừng tân lang và tân giai nhân sắc cầm hoà
hiệp… Sau này có dịp về hậu cứ, Nhân ghé nhà Tân, chung vui với hạnh phúc bạn
qua bữa cơm thân mật để nghe tiếng bi bô của chú bé mới tập nói… Thế mà bây
giờ, Nhân biết nói sao với vợ bạn đây?! Người góa phụ nửa chừng xuân, còn đầy
hương sắc, người tình rất mực thủy chung. Đó là mẫu người đàn bà Việt Nam quí
hiếm trên đời…
Ngày qua ngày, cõi lòng em buốt giá...
Tủi phận mình mang phải kiếp hồng nhan.
Tha thiết yêu mà duyên tình đứt đoạn!
Đành ôm mối tuyệt tình chôn theo mộ...
Trọn đời em, anh như sao Bắc Đẩu,
Để em mơ, em ước một mùa Xuân.
Dẫu xa anh, em vẫn cảm thấy gần,
Và trọn kiếp mãi thương anh yêu dấu...
Chiến tranh, loạn ly, chết chóc xảy ra, Nhân như nhìn thấy cái chết trước mắt hàng ngày. Chàng nhận thức về sự tàn bạo của kẻ thù
và tính chất vô nhân đạo: giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh tại bất kỳ
chi phí của cuộc sống.
Đó là Tết Mậu Thân, tiểu đoàn của Nhân đóng quân bên ngoài thành phố Huế. Các hoạt động chuẩn bị lễ kỷ niệm Tết vẫn còn bận rộn và vui vẻ như bình thường. Ở phía trước hoặc mặt sau của mỗi nhà tiếng nói của người lớn và trẻ em có thể được nghe nhắc nhở nhau làm điều này điều nọ... Người đến hoặc đi ra ngoài trong vội vàng như để đánh bại những khoảnh khắc cuối cùng của năm cũ trước khi quá muộn. Một cảnh tượng sống động trên tất cả các thành phố, trên cả nước. Âm nhạc của thời gian mùa xuân vang lên từ mỗi gia đình duy nhất và tin tức Đài phát thanh phát ra phát ra liên hồi...
Đó là Tết Mậu Thân, tiểu đoàn của Nhân đóng quân bên ngoài thành phố Huế. Các hoạt động chuẩn bị lễ kỷ niệm Tết vẫn còn bận rộn và vui vẻ như bình thường. Ở phía trước hoặc mặt sau của mỗi nhà tiếng nói của người lớn và trẻ em có thể được nghe nhắc nhở nhau làm điều này điều nọ... Người đến hoặc đi ra ngoài trong vội vàng như để đánh bại những khoảnh khắc cuối cùng của năm cũ trước khi quá muộn. Một cảnh tượng sống động trên tất cả các thành phố, trên cả nước. Âm nhạc của thời gian mùa xuân vang lên từ mỗi gia đình duy nhất và tin tức Đài phát thanh phát ra phát ra liên hồi...
- Chính phủ hai bên đã
thỏa thuận ký kết ngừng bắn trong ba ngày Tết để đồng bào vui
Xuân...
Mọi người đều cảm thấy nhẹ nhõm như khi nghe tin, cả nước sẽ sẵn sàng để
chào đón một năm đầy hứa hẹn. Lệnh ngừng bắn đã được thoả thuận trong ba ngày, bắt đầu từ 0 giờ của năm mới âm lịch. Tại đêm giao thừa của năm mới, một cảm giác kỳ lạ lẻn da
của người dân nghe có vẻ to hơn, gay gắt hơn nhiều, và ở mức bất thường và tốc
độ...
Chiều ba mươi Tết Mậu Thân có mưa lạnh…
Mọi nhà đua nhau gói bánh tét, bánh chưng và cùng thức để canh nồi bánh, chờ
đón giao thừa trong ánh lửa bập bùng... Ngoài phố, các nhà buôn và các nhà khá
giả có thói quen đốt từng giây pháo dài từ lầu xuống đất nghe vui tai và khói
bay mù mịt… Giao thừa năm nay người ta đốt pháo nhiều hơn mọi năm.
Đâu đây vang lên những lời thì thầm...
- Sao lạ quá, xen lẫn tiếng pháo có tiếng súng
nổ. Chúng ta hãy lắng nghe tiếng súng phát ra từ đâu?!
- Hãy chú ý đến tiếng ồn, chúng ta có thể nhận ra nó không còn là
pháo nổ ở tất cả. Đó là tiếng súng...
Và họ đã đúng- Những người cộng sản đã vi phạm thỏa thuận ngừng bắn. Họ đã tấn công trụ sở của Sư Đoàn I Bộ Binh đầu tiên tại đồn Mang Cá. Vị trí này đã là nơi an toàn nhất trong
nhiều năm qua, nhiều tổ chức quân sự quan trọng đã đóng: Quân y viện Nguyễn Tri
Phương, trụ sở chính của Công ty Reconnaisance Cougar đen, Huế lực lượng Cảnh
sát Quốc gia, cơ sở sân bay Thành Nội. An ninh khá nghiêm ngặt, và không ai
mong đợi một cái gì đó sẽ xảy ra qua đêm. Các cửa thành kiên cố đều có lính canh gác có ngờ đâu!...
Mồng Một Tết đã thấy bóng dáng vài lính Việt cộng
đi trên đường Đinh Bộ Lĩnh và sau đó kiểm soát con đường trước mặt Đồn Măng Cá.
Hôm sau đã thấy họ bắt đầu đi từng nhà hỏi thăm tình hình, bắt người này, người
khác đi trình diện... Khi đó Đài phát thanh Huế, Tiểu khu, Ty Cảnh Sát, Đồn
Mang Cá... Quận Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang, căn cứ Mỹ ở Phú Bài, đồn pháo
binh Nam Giao, đồn Trường Bia ở chân núi Ngự Bình chưa bị chiếm... Chỉ có Gia
Hôi, Thành Nội là bị chiếm.
Bên Tây Lộc gồm Cảnh Sát, Xây Dựng Nông Thôn,
quân nhân về đây tụ họp. Dựa vào địa thế
trước mặt có hồ nước, sau lưng có tường thành, bên cạnh có lực lượng bảo vệ đồn
Mang Cá và Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn I, bên ngoài có lực lượng võ trang của quận Hương
Trà, hải quân của Mỹ kiểm soát đường sông từ Bao Vinh đến cầu An Hoà, từ Thuận
An đến Vỹ Dạ bắn hải pháo yểm trợ cho các đơn vị còn chiến đấu...
Tất cả đã lập được phòng tuyến tự vệ tại nhà thờ
Công Giáo Tây Linh. Nhờ ba ngày Tết có xôi bánh và nhà thờ có dự trử lương thực
nên lưc lượng chống cự có thức ăn cầm cự gần cả tháng không bị chết đói...
Riêng Việt Cọng, mặt mày non choẹt, búng ra sữa
đóng chốt trên thành, chân bị xiềng với súng phòng không, quyết tử thủ thấy mà
ghê! Máy bay dội bom phá sập cửa thành
liên tiếp ba tuần mà chưa giải toả được khu vực Việt cộng chiếm đóng. Trong thời
gian này chúng bắn chết, bắt bớ một số người mang đi lập toà án xét xử thủ
tiêu, vùi thây... Nhiều địa điểm trong đó có trường Trung học Gia Hội là mồ chôn
tập thể hàng trăm người vô tội... Máu đổ thịt rơi, tra tấn dã man, chỉ điểm bắt
bớ vô tội vạ... Việt cộng đã chiếm các cơ sở hành chánh như Toà Hành Chánh
Tỉnh, Toà Đại Biểu, Nhà Thương Huế, Toà Án ở phía Nam sông Hương. Tại Lao Thừa
Phủ, họ đánh chiếm và mở cửa nhà giam lùa tù đi...
Sau một tuần quân đội VNCH và đồng minh chiếm lại
được khu vực Tả ngạn sông Hương. Việt Cộng đã phá sập cầu Bạch Hổ và Trường
Tiền. Lính Trung Đoàn 3 từ cây số 17 tiến vào chiếm cầu An Hoà, kiểm soát đường
Trần Hưng Đạo bên ngoài cửa Thượng Tứ. Lính Nhảy Dù đánh chiếm cửa Đông Ba bị
tổn thương nặng nên rút lui để Thủy Quân Lục Chiến tiếp sức.
Các anh lính chiến đem sinh mạng ra chiến đấu một
cách quyết liệt, lớp này ngã gục, lớp khác tiến lên tiêu diệt quân thù đem tự
do no ấm cho người dân vô tội... Việt
Cộng chỉ còn
kiểm soát vùng Gia Hội, Phú Cam, Vỹ Dạ, và Thành Nội. Hơn ba tuần cố
thủ, chợ không họp, dân thiếu lương thực...
Bộ đội Cọng Sản lâm vào tình trạng đói rét lại bị
quân đội ta truy kích, nên chúng phải tìm đường tháo chạy. Trước lúc giẫy chết
chúng còn bắt bớ tàn sát nhiều người dân lành vô tội và đem theo nhiều người
dân khác, sau đó chúng đã tàn sát hoặc chôn sống rất dã man.
Quân lực
VNCH từ từ chiếm lại thành phố Huế... Hình ảnh người lính quốc gia xuất hiện
với xe tăng đã đem lại niềm tin cho dân Huế... Công binh bắt cầu tạm cho đồng
bào qua lại, đời sống miền sông Hương núi Ngự bắt đầu hồi sinh trong hoang tàn
đổ nát. Chợ búa nhóm họp để có cái mưu sinh, ăn mặc... Nhiều tiếng thở dài,
than vãng...
- Nhà cửa thành tro bụi, con mất cha, vợ mất
chồng, gia đình tan nát, ruộng vườn xác xơ hằn in trên khuôn mặt thất thần, đôi
mắt đẩm lệ. Tội ác VC chất cao thành núi. Bọn trí thức ăn cơm quốc gia thờ ma
cộng sản, mất hết lương tri hiện ra nguyên hình phải theo gót VC lên núi trốn
thoát...
Trong khi đó ở Sài Gòn, Việt Cộng lợi dụng hưu
chiến trong ba ngày Tết, chúng mở cuộc tấn công gọi là “ Tổng công kích, tổng
nổi dậy ” trên toàn lãnh thổ miền Nam VN đợt 1. Tại Thủ Đô Sài Gòn - Chợ Lớn , Gia Định đêm mồng một rạng mồng hai
Tết, những toán đặc công , các tiểu đoàn
chủ lực miền Nam và những đơn vị chánh quy thuộc các Công trường có bí số 5,7,
9 đã âm thầm lén lút xâm nhập những mục tiêu quan trọng trong thủ đô như Đài Phát
Thanh Sài Gòn, cổng số 4 bộ TTM/QLVNCH, toà Đại Sứ Hoa Kỳ, khu vực đường Nguyễn
Kim, Trần Quốc Toản, trường đua Phú Thọ...Bên Gia Định chúng ém quân tại Đồng
Ông Cộ, Ngả Năm Bình Hoà. Phía đông nam Sài Gòn ngả đường đi Cần Giuộc... Ngay
sau đó, các đơn vị quân đội thiện chiến QLVNCH có nhiệm vụ bảo vệ vòng đai của
Biệt Khu Thủ Đô.
Biệt Đoàn BĐQ của Nhân, sáng mồng hai Tết được
lệnh cấp tốc về giải toả, quét sạch VC ra khỏi những nơi chúng xâm nhập, tạm
chiếm. Tiểu đoàn BĐQ từ Thủ Đức được lệnh giải toả khu Cầu Kinh, cầu Sơn tới
ngả ba Hàng Xanh, đẩy VC xuống sông, tiêu diệt chúng...
Để tránh thiệt hại cho dân về nhân mạng và tài
sản, BĐQ đã đánh bằng cách không dùng phi pháo... Riêng tiểu đoàn BĐQ phụ trách
tìm diệt những thành phần du kích, chủ lực địch muốn xâm nhập Bình Chánh và Hóc
Môn.
Thất bại 100% chiến dịch “ Tổng khởi nghĩa, tổng nổi dậy Tết Mậu Thân ”.
Việt Cộng đã gây cảnh nhà tan cửa nát, thiệt hại tài sản của dân chúng chỉ
riêng tại Thủ Đô Sài Gòn lên tới hàng trăm triệu đồng, hàng ngàn căn nhà bị
thiêu rụi.
Sở dĩ có sự thiệt hại to lớn như vậy vì trong khi
QLVNCH cố bảo vệ tài sản và tính mạng người dân, thì Cộng sản vô thần đi đâu
cũng đốt nhà, giết dân, mang người đi làm con tin, làm bia đỡ đạn cho chúng,
gây ra xáo trộn để dễ bề tẩu thoát, trốn chạy vào mật khu... Dân chúng truyền
khẩu...
- Tưởng rằng VC khiếp vía, và không dám đánh phá
miền Nam một thời gian dài vì sự chống đối mãnh liệt và sự càng quét dữ dội của
BĐQ…nhưng từ ngày 5- 5- 1968 chúng lại thay đổi chiến thuật, không tấn công và
chiếm bất cứ một vị trí quân sự hay công sở nào mà chia quân xâm nhập chiếm giữ
các khu nhà dân trong một tuần và bị đánh bật ra...
Nhưng ngày 25- 5- 68, VC lại xâm nhập Sài Gòn qua
hai ngả phía Bắc Gia Định và phía Nam Chợ Lớn. Chúng lợi dụng sơ hở vòng đai
phòng thủ và đột nhiên chiếm giữ các nơi then chốt như các toà nhà lớn, kho
hàng, nhà máy, xí nghiệp, nhà thờ chùa chi. Ngoài ra chúng còn đào hầm, giao
thông hào ở nơi cây cối rậm rạp, nghĩa trang để phòng thủ. Để gây hoang mang
cho dân, chúng trang bị hoả lực rất mạnh và pháo kích vào thành phố các loại vũ
khí nặng làm nhà cửa sập gây chết chóc cho dân chúng...
Chúng còn giả dạng QC/VNCH xét lính đi lẻ tẻ bắn
chết hay mang đi thủ tiêu. Ý đồ kế hoạch VC là tàn phá kinh tế VNCH. Các đơn vị BĐQ hoạt động trên các
địa bàn các quận 6,7,8 hợp lực cùng BCH khu D có Đại đội Trinh sát BĐQ của Nhân
và chi đoàn Thiết Quân Vận và một Đại đội Giang thuyền không nao núng trên
nhiều mặt trận...
- Người lính này ngã, người khác nối tiếp với
khẩu hiệu “ BĐQ sát ”đã un đúc tinh thần
chiến đấu của quân sĩ lên cao, cao mãi… Trận đánh tại nghĩa địa Triều Châu kéo
dài…kết quả VC thua, hơn hai trăm xác địch bỏ lại trận địa kể cả phụ nữ. Quân ta
tịch thu nhiều vũ khí, súng ống, đạn pháo, mặt nạ chống hơi ngạt…
Phía
quân ta chỉ có 28 chiến sĩ hy sinh. Sau chiến thắng lừng lẫy vẻ vang của BĐQ,
mặt trận Phú Thọ Hoà đã trở lại an ninh, nhiệm vụ bảo vệ dân chúng được giao
lại cho các đơn vị bạn như CSDC và toàn thể quân nhân các cấp được thăng lên
một cấp, trong đó có Nhân …
Anh đã một thời thoả chí trai,
Dọc ngang diệt giặc suốt đêm ngày.
Mong cho đất nước yên làng xóm.
Thoả chí anh hùng, thoả chí trai...
Giờ nhớ lại anh, thương các anh,
Dầu rằng mộng lớn chưa hoàn thành.
Nhưng Anh xứng đáng! Anh xứng đáng!
Chiến sĩ Cộng Hoà quá liệt oanh....
Sau Tết Mậu Thân, đơn vị Nhân hành quân trên Đà Lạt. Tiểu đoàn BĐQ chạm
trận nặng trong rừng Cam Ly. Đại đội Nhân bị máy bay đánh lầm, phải chạy bán
sống bán chết và may ra thoát chết…
Trận An Lộc chấm dứt, sư đoàn của Nhân được lệnh
ra tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị. Đại đội của Nhân trú đóng tại khuôn viên
trường Nguyễn Hoàng và đào giao thông hào quanh trường. Nhiệm vụ của đại đội là
đêm tối chia ra từng toán nhỏ tìm cách bò vào bên trong Cổ Thành, và là tiên
phong tiến vào cánh hữu với khẩu hiệu “ Tổ
Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm ”. Nhân ở
trong hầm chỉ huy suốt ngày đêm với đại đội phó Trần Diệu, đàn em học trường
Nguyễn Hoàng sau chàng hai năm. Mỗi khi ra khỏi hầm quan sát tình hình chiến
sự, Nhân đã đau xót vì quang cảnh Quảng
Trị đổ nát, trường Nguyễn Hoàng tiêu
điều vì bom đạn...
- Tên bảng trường đứt đôi, mấy dãy lớp bình địa
như đứt từng khúc ruột của mình…
Mỗi lần kêu pháo binh bắn vào Cổ Thành, Nhân
không quên nhắc các bạn giữ phần hành, hồi trước cùng học Nguyễn Hoàng...
- Các anh nhớ pháo đúng mục tiêu toạ độ, đừng bắn
nhằm trường xưa nghe !…
Nhưng than ôi niềm lo cho ngôi trường xưa với
những kỷ niệm chưa tan trong tâm tư Nhân
thì một trái đại bác từ bên kia
sông Thạch Hản bắn qua đã nổ ngay trên miệng hầm. Một mảnh đạn bay xuống giao
thông hào, nơi Nhân trú đóng đã ghim trên bắp vế của chàng.
Máu ra lênh láng và chàng ngất đi… Trần Diệu hối
hả chụp máy truyền tin...
- Hải pháo từ cửa Việt hãy bắn vào Cổ Thành để
trả thù Việt Cộng đã bắn trọng thương Nhân…
Trần Diệu tìm đủ mọi cách cõng Nhân ra khỏi tầm
đạn của địch để tải thương hòng cứu mạng sống đại đội trưởng, nhưng vô phương..
sau chàng nhớ ra và kêu cứu bạn thiết giáp đang đóng quân gần đó,,
- Bạn hãy cho xe thiết giáp đến tải thương Nhân
vào thẳng quân y viện để kịp cứu chữa bạn mình nghe !...
Nhưng vì
cứu chữa trể nên Nhân đành phải cưa chân và trở thành tàn phế.
Nỗi đau của Trần Diệu về Nhân chưa nguôi ngoai
thì niềm đau thương khác vụt đến… Khi tái chiếm cổ thành Quảng Trị, biết bao
xương máu của quân dân cán chính đổ xuống tô điểm cho Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ thêm
tươi thắm được tung bay trên cổ thành. Và sau khi từng bước thu gọn chiến
trường, Trần Diệu mau chóng đến thăm viếng gia đình Yến- ý trung nhân được hai
gia đình chấp nhận với mong ước…
- Cầu mong cho gia đình Yến tai qua nạn khỏi… Yến
có ông bà nội già yếu, chắc gia đình nàng không nở di tản, bỏ lại ông bà nội
tuổi già sức yếu, không ai chăm sóc…Mấy hôm nay ruột gan mình như lửa đốt, khi
kêu hải pháo cũng nhắc chừng các bạn, rót cho kheo khéo kẻo nhằm nhà dân, nhà
người yêu mình thì khốn!…
Nỗi lo theo chân Trần Diệu qua các dãy phố đổ nát
hoang tàn… Từng đống gạch, hố bom sâu hoắc không cản bước chân chàng tiến tới
trong nỗi thống khổ của quê hương…Từ xa Trần Diệu đã nhìn thấy con đường mang
tên em hiện ra trong gạch ngói, bụi cát, cây lá ngổn ngang…Trần Diệu chạy như
bay đến khu phố của người yêu… Tim Trần Diệu như muốn bay ra khỏi lồng ngực vì
khu phố của nàng xem như bình địa, và than thầm...
- Tại sao ta không thấy nóc nhà nào còn nguyên
vẹn hết…
Trần Diệu kêu gào tên người yêu đến khản cả cổ
họng, nhưng yên lặng bao trùm đến rợn người… May thay một tấm tôn khu nhà bếp
còn vướng trên một trụ nhà chống đỡ và xung quanh là gạch ngói ủ đống, một
tiếng rên yếu ớt vang lên…
- Cứu tôi với, khát nước quá! Cho tôi miếng nước…
Trần Diệu cố sức moi đống gạch vụn và lấy sức
bình sinh xê dịch tấm tôn ra… Một mái tóc dài bê bết máu, và khuôn mặt xanh xao
thất thần hiện ra…
- Yến! Yến em, anh đây! Trần Diệu thất thanh kêu
lớn…
- Ông bà, ba má em đâu rồi! Yến thều thào hỏi.
- Nước đây, em chỉ thấm chút ít cầm hơi và yên
tâm nằm nghỉ đôi phút để anh đi một vòng xem tình huống ra sao?! Anh sẽ dùng
máy truyền tin nhờ bạn anh đóng quân gần đây đến giúp anh một tay tìm thân nhân
em xem thế nào? Nhưng trước mắt anh phải đưa em tới bệnh viện cứu chữa cho kịp đã!…
Vừa nói Trần Diệu vừa bế xốc người thương trên
tay chạy bay đến chỗ đóng quân tìm xe chở Yến đi trạm xá vì thấy tính mạng Yến
quá yếu, sợ chần chờ sẽ nguy hại đến tính mạng
nàng…?!
May nhờ cứu chữa kịp thời, tính mạng Yến thoát
khỏi bàn tay tử thần. Riêng
ông bà, cha mẹ nàng
đã hóa ra người thiên cỗ, dù các bạn Tân đã phụ nhau moi đống gạch vụn ra
tìm kiếm, nhưng tất cả đã hơi cạn tàn sức, máu me khô cứng, có người thân xác
không còn nguyên vẹn…
Trần Diệu không vội báo tin buồn cho người yêu
biết. Chàng lựa lời tránh né, mãi khi thấy tình trạng sức khỏe Yến khả quan mới
cho nàng biết tin xấu. Cùng một lúc Yến chịu bốn cái tang ập đến… nhưng nhờ có
Trần Diệu bên cạnh an ủi và chờ hết tang họ trở thành vợ chồng sống trong hạnh
phúc tràn đầy...
Đầu 1974, hai người trẻ tuổi đã kết
hôn. Diệu và đơn vị tham gia các trận chiến thường xuyên hơn, bởi vì địch leo thang nỗ lực của họ
để vô hiệu hóa chương trình Việt Nam đề xuất của chính phủ Mỹ sau khi thu hồi
đầy đủ của tất cả các binh sĩ Mỹ ra khỏi Việt Nam theo Hiệp định Hoa bình Paris
ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm
1972
Tưởng rằng hạnh phúc của họ trôi theo năm tháng
mặn nồng... tuy làm vợ lính là phải sống trong phập phồng lo sợ vì chiến trận
sôi động...
Những buổi tiễn đưa Trần Diệu ra mặt trận là
những lo sợ bâng quơ cho tính mạng chồng như chuông treo chỉ mành, chỉ một cơn
gió mạnh là sợ chỉ đứt chuông rơi, tan nát đời lính. Những đêm cô đơn thiếu
vắng bóng chồng là ác mộng hiện về phá tan giấc ngủ an lành của Yến... Rồi
những ám ảnh về chết chóc của gia đình như một vết hằn đau đớn trong suốt cuộc
đời nàng... Cũng may có hai con thơ là niềm an ủi Yến trong chuỗi ngày làm vợ
lính. Tình mẫu tử choán ngợp cuộc sống nàng với bao lo toan cho con trẻ...
Nhưng rồi một biến cố quan trọng ập xuống miền Nam
tự do – Việt Cộng xé nát hiệp định Ba Lê với sự hỗ trợ của khối Cộng Sản quốc
tế. Một thế cờ quốc tế định trước họ đã ào ạt xua quân thôn tính Miền Nam. Nước
mất nhà tan, tương lai đen tối... Một số quân dân cán chính có thế lực và
phương tiện trong tay đã cao bay xa chạy...
Gia đình Trần Diệu và Nhân ở lại để bị bao đoạ
đày gian khổ... Nhân tàn tật nên không bị lùa vào “ Trại Cải Tạo ” Riêng Trần Diệu và hàng trăm
ngàn Trần Diệu khác trong guồng máy
“ “ ngụy quân, ngụy quyền ” đều
phải khăn gói theo lời kêu của chính quyền mới là mang lương thực 7 ngày đến 10
ngày theo cấp bậc...Nhưng thật ra kéo dài cho người tù không bản án và ngày về
vô hạn định...
Trần Diệu sống hoà đồng với anh em đồng đội chịu
chung cảnh tù tội. Tuy đói khổ triền miên, nhưng phần đông tinh thần anh em
trong trại không bị dao động. Anh em “ cải
tạo ” theo mỹ từ đẹp mà CS thường nói. « Cá nằm trong rọ, chim ở trong
lồng » không ai bảo ai đều ngấm ngầm chống đối, ương ngạnh... Họ tranh
đấu ngấm ngầm qua những bài hát, câu thơ, những mẫu chuyện tranh đấu truyền
miệng cho nhau nghe...
Không ai chịu khuất phục trước bạo quyền và bọn
chó săn bán rẻ lương tâm ; họ chỉ là thành phần thiểu số xu thời chạy theo
bạo quyền làm “ chó săn ”chỉ điểm cho
giặc hành hạ đồng đội rất dã man. Họ là những kẻ ngoảnh mặt với lương tâm. Họ
sẵn sàng đâm sau lưng anh em chiến sĩ... Thật đáng xấu hổ cho loài lang sói,
không còn tình người. Còn gì nhục nhã hơn cho kẻ cầm súng đã một thời trong
hàng ngũ chống giặc! Nay họ lại quay lưng phản bội đồng đội, phản bội lại tình
huynh đệ chi binh. Cũng may số người xấu xa bỉ ổi đó chỉ đếm đầu ngón tay mà
thôi!
Trong tù dù đói khổ vì hoàn cảnh, gia đình Trần
Diệu quá khó khăn vợ ít thăm nuôi, nhưng anh em cũng cưu mang chia sẻ cho nhau
từng thỏi đường, miếng cá, miếng thịt kho mặn cầm hơi... Ngoài ra khi đi ra
ngoài lao động, Trần Diệu cũng kiếm được nắm rau rừng, mót vài củ khoai nhỏ
bằng ngón tay đỡ dạ. Có khi bắt dược con cóc, con nhái đỡ đói qua ngày...
Cuộc sống tù đày cứ kéo dài ngày này qua ngày
khác với tương lai mù mịt, với đói khát, bệnh tật lao động quá sức con người
gầy còm ốm yếu vì kiệt sức... Trần Diệu suýt
bỏ mạng mấy lần vì đau
ốm liên miên, khi thì tiêu chảy, lúc nóng sốt cao, rồi lại sốt
rét ngã nước...mà không có thuốc chạy chữa. May số chàng cao nên sáu năm sau
được về với vợ con...
Trần Diệu về để biết rõ hoàn cảnh thảm thương đói
khổ của vợ con...Yến một nách hai con dại, đồ đạc trong nhà lần lần ra chợ trời
cho sự sống của con thơ. Rồi Yến tập tành ra chợ trời buôn bán...người mua thì
ít, kẻ bán thì nhiều, làm cho cụt vốn. Sau nàng
bán đi nữ trang ngày cưới làm vốn buôn hàng chuyến, nhưng bị công an lột
tận xương tủy. Mẹ con nàng tứ cố vô thân, không ai giúp đỡ, nên phải đi kinh tế
mới sinh sống. Nơi đèo heo hút gió, chân yếu tay mềm, con cái nheo nhóc nên
thật cơ cực lầm than, con cái không được học hành...
Biết
rõ hoàn cảnh của Yến, nên Trần Diệu không hờn trách nàng sao không đi thăm nuôi
chàng... Thế rồi Trần Diệu được tạm tha về với bệnh tật triền miên... May nhờ
với ý chí sắt đá thương vợ con, chàng đã từng bước khắc phục khó khăn, kiếm
thuốc ta chữa trị.... Trời cũng thương gia đình hiền đức nên tai qua nạn khỏi. Trần
Diệu bỏ kinh tế mới hẻo lánh về nông trường Lê Minh Xuân và gặp một số bạn hữu
tốt giúp đỡ nên cuộc sống khá hơn... Khi có chương trình HO, Trần Diệu bàn cùng
vợ... « Chúng ta làm thủ tục đi Mỹ
xin theo chương trình H.O »
Thế
rồi theo sự cứu xét, gia đình Trần Diệu đi đợt đầu tiên và định cư tại tiểu
bang lạnh xứ Mỹ, mở ra một tương lai sáng lạng... Hai vợ chồng Trần Diệu đi
làm. Sau khi thích nghi với cuộc sống
mới, ổn định công ăn việc làm, Trần Diệu bàn với vợ « Cuộc sống gia
đình chúng ta đã từng bước tốt đẹp, con cái có dịp học hành dưới chế độ tự do,
dân chủ. Chúng ta phải nghĩ đến bạn bè đồng đội vì nhiều hoàn cảnh đặc biệt
không được ra đi sinh sống tại các nước Tự do, trong đó có Nhân là người bạn
thân nhất đã là một TPBVNCH hiện đang sống cơ cực tại quê nhà. Vậy chúng ta gởi
quà cáp về giúp đỡ Nhân trong cơn cơ cực nhé !... »
“Cải tạo”nhiều năm thật khổ thay!
Tình nghĩa anh em ở lúc này
Chia bùi sẻ ngọt khi cơ cực
An ủi cho nhau lúc đắng cay!...
Mong ước ngày nào đất nước tôi,
Không còn kẻ ác thống trị đời
Muôn hoa tươi thắm, người mừng rỡ
Dân chủ, tự do thật sáng ngời...
Sau năm 1989, Nhân không đủ tiêu chuẩn làm đơn đi
HO, chàng lại không muốn trở về làng…
- Gia đình mình làm đơn xin định cư ở làng Trí
Bưu, sát hông trường Nguyễn Hoàng nhé mạ!
Thật vậy, Nhân làm sao quên được trường Nguyễn
Hoàng… Ngôi trường có rất nhiều kỷ niệm mà chàng không bao giờ quên và sẽ ôm ấp
cho đến khi nhắm mắt lìa đời... Vợ của Nhân có cha từ lâu mất tích, không ngờ
đã tập kết ra Bắc và đã chết trận. Sau 75 gia đình Lài trở thành gia đình liệt
sĩ.
Mẹ Lài ở với vợ chồng Nhân, để chiêu dụ nhân tâm
bước đầu chính quyền mới đã cứu xét gia
đình liệt sĩ nên cấp cho một ngôi nhà tình thương. Lài vợ Nhân được tiếp tục
dạy lớp mẫu giáo trường tỉnh. Riêng Nhân học thêm và lấy xong bằng đại học,
chàng mở lớp luyện thi ở nhà và học sinh học khá đông. Mức thu nhập cũng tạm
sống qua ngày…
TuyNhân tàn tật, nhưng Lài hết sức thương yêu
chồng. Chiều chiều Nhân muốn sang trường Nguyễn Hoàng làm thơ, nhớ về kỷ niệm
xa xưa… nàng đẩy xe đưa chồng sang tìm ý thơ rồi lặng lẽ về lo công việc nhà,
may vá kiếm chút ít tiền bạc thêm vào cho ngân quỹ gia đình. Ngay cả việc Lài
muốn có một đứa con cho vui cửa vui nhà, nhưng theo ý Nhân:
- Anh tàn tật như thế này đã là gánh nặng cho em,
có con dại, em lại nặng gánh thêm, tội cho em lắm!
Dối gạt mẹ già, Nhân vả lã:
- Khi con bị thương bác sĩ cho biết, con không
thể có con được!
Bà cụ chỉ biết thở dài…và ôm nỗi buồn xuống tuyền
đài…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét